19 Th3 Bản tin tổng hợp PPIA từ 11/3- 16/3/2024
Bản tin tổng hợp thị trường giấy Châu Á hàng tuần
Giá bột ở Trung Quốc tăng do cuộc đình công ở Phần Lan, giá bột kỳ hạn ở SHFE tăng trước Tuần lễ bột giấy Thượng Hải
Mối lo ngại ngày càng tăng của khách hàng Trung Quốc về khả năng gián đoạn nguồn cung bột giấy từ Phần Lan do các cuộc đình công đang diễn ra, thúc đẩy kế hoạch tăng giá bột giấy nhập khẩu vào Trung Quốc của các nhà cung cấp trước Tuần lễ bột giấy Thượng Hải hàng năm vào ngày 18-22 tháng 3.
Việc sản xuất bột giấy tại nhiều nhà máy ở Phần Lan thuộc UPM, Stora Enso và Tập đoàn Metsa đã bị ảnh hưởng kể từ khi Liên minh Vận tải Phần Lan (AKT) phát động cuộc đình công kéo dài hai tuần tại các cảng của Phần Lan vào ngày 11 tháng 3 để phản đối đề xuất cải cách thị trường lao động của chính phủ.
Hai nhà sản xuất Phần Lan đã thông báo cho khách hàng Trung Quốc về khả năng tuyên bố bất khả kháng, với chuỗi sản xuất và cung ứng của công ty dự kiến sẽ bị gián đoạn khi cuộc đình công ảnh hưởng đến hoạt động hậu cần tại các cảng Phần Lan.
Nếu trường hợp bất khả kháng được tuyên bố, công ty cho biết sẽ tạm dừng hợp đồng giao bột giấy, trừ khi cuộc đình công kết thúc trước ngày 25 tháng 3.
Trước cuộc đình công, các nhà sản xuất Phần Lan đã thông báo cho người mua Trung Quốc rằng họ dự định tăng giá thêm 30 USD/tấn đối với bột kraft gỗ mềm phương Bắc tẩy trắng (NBSK).
Giá bột giấy kỳ hạn tháng 5 được giao dịch tích cực nhất được chốt ở mức 6.050 RMB/tấn vào thứ Năm ngày 14 tháng 3, tăng 234 RMB/tấn so với tuần trước. Mức đó tương đương 730 USD/tấn, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT) 13% và 120 RMB/tấn chi phí hậu cần.
Do đó, giá NBSK bán lại, được chốt theo giá bột giấy kỳ hạn, đã tăng lên 6.187 RMB/tấn trong tuần này, tăng 192 RMB/tấn so với tuần trước. Mức giá đó tương đương 743 USD/tấn, trừ VAT và 150 RMB/tấn chi phí hậu cần cho việc bán lại bột giấy.
Sự gia tăng giá của bột NBSK bán lại và giá của bột kỳ hạn đã tạo động lực cho các nhà cung cấp, những người đang thúc đẩy mức tăng 20-50 USD/tấn đối với NBSK nhập khẩu từ Canada.
Giá NBSK của Canada có nhiều khả năng có chi phí sản xuất cao liên quan đến nguồn cung dăm gỗ và chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ giá bột giấy kỳ hạn tại Thượng Hải so với NBSK của Bắc Âu.
Các nguồn tin cho biết, bất chấp khả năng gián đoạn nguồn cung, người mua Trung Quốc vẫn áp dụng cách tiếp cận chờ xem đối với việc tăng giá NBSK được đề xuất, nhằm mục đích mặc cả với các nhà cung cấp tại các cuộc họp bên lề trong hội nghị Tuần lễ bột giấy Thượng Hải.
Mặt khác, các thương nhân đang bán bột kraft gỗ mềm đã tẩy trắng (BSK) dự trữ không thuộc bột của sàn giao dịch Thượng Hải (SHFE), trong khi không chào bán bột thuộc SHFE, ngoại trừ BSK của Nga, với niềm tin rằng BSK dự trữ đó sẽ bán được giá hơn trong ngắn hạn.
BSK của Nga do Tập đoàn Ilim cung cấp được chỉ định để giao dịch trên SHFE. Phần lớn BSK được lưu trữ tại các kho do SHFE chỉ định, lên tới hơn 400.000 tấn, là BSK của Nga.
Một đại lý bột giấy cho biết bất chấp những cảnh báo tới người mua về tác động tiềm tàng của cuộc đình công ở Phần Lan, trong tuần này khách hàng vẫn ngần ngại vì cho rằng giá quá cao.
Một thương nhân cho biết: “Hầu hết người mua muốn mua BSK nhập khẩu là các nhà đầu tư đang xem xét việc kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường kỳ hạn, chứ không phải các nhà máy giấy sẽ sử dụng nguyên liệu để sản xuất giấy”.
“Khách hàng sẽ đưa ra quyết định sau khi Arauco công bố giá bột gỗ thông radiata cho lô hàng tháng 4 vào tuần tới,” thương nhân này cho biết.
Theo các nguồn tin, NBSK Canada đã được bán với giá 740-760 USD/tấn, tăng 10-20 USD/tấn trong hai tuần trước đó. Tuy nhiên, giá NBSK Bắc Âu ổn định ở mức 700-750 USD/tấn. Do đó, mức giá trung bình của NBSK đã tăng 8 USD/tấn lên 738 USD/tấn.
Giá BHK tăng: Các nguồn tin cho biết các cuộc đàm phán về đề xuất tăng giá 30 USD/tấn đối với bột kraft gỗ cứng tẩy trắng (BHK) Nam Mỹ vẫn đang được tiến hành nhưng dự kiến sẽ kết thúc vào tuần tới khi người bán và người mua gặp nhau trực tiếp tại Thượng Hải. Việc tăng giá này sẽ làm cho giá loại này lên 680-690 USD/tấn.
Người mua được cho là phản đối việc tăng giá, do giá giấy và bìa cứng ở thị trường nội địa yếu, đồng thời lưu ý rằng công suất BHK 6 triệu tấn mỗi năm sẽ được đưa vào vận hành tại Trung Quốc và Brazil vào cuối năm nay, điều này đang phủ bóng đen lên thị trường.
Một thương nhân chỉ ra rằng người mua đã giảm khối lượng khi giá BHK tăng lên 650 USD/tấn và các nhà máy sản xuất giấy tissue ở miền bắc Trung Quốc đã ngừng mua loại bột này hoàn toàn vì họ cho rằng giá quá cao.
Quốc Tế Sơn Ưng, Trung Quốc bán công ty con Nordic Paper
Công ty Quốc Tế Sơn Ưng có kế hoạch thoái vốn một phần hoặc toàn bộ vốn sở hữu tại công ty con gián tiếp, Nordic Paper, nhằm tối ưu hóa việc phân bổ nguồn lực và tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi, công ty cho biết trong một thông báo đưa ra vào thứ Ba ngày 12 tháng 3.
Công ty cho biết việc này không có nghĩa là ngừng mở rộng thị trường ở nước ngoài. Công ty sẽ tiếp tục với chiến lược quốc tế hóa của mình, tăng cường mở rộng ra nước ngoài một cách đều đặn và khám phá thêm các thị trường tiềm năng.
Vào tháng 10 năm 2017, Quốc Tế Sơn Ưng đã mua lại 100% cổ phần của Nordic Paper thông qua công ty con do Thụy Điển sở hữu hoàn toàn, SUTRIV Holding AB. Năm 2020, Nordic Paper được niêm yết trên NASDAQ Stockholm ở Thụy Điển.
Hiện tại, Quốc Tế Sơn Ưng nắm giữ 48,16% cổ phần của Nordic Paper thông qua SUTRIV Holding.
Là nhà sản xuất giấy chịu dầu mỡ và giấy kraft hàng đầu, Nordic Paper vận hành ba nhà máy ở Thụy Điển, một ở Na Uy và một ở Canada, với tổng công suất giấy và bột giấy khoảng 500.000 tấn/năm.
Quốc Tế Sơn Ưng hiện có tổng công suất giấy và bìa khoảng 8,63 triệu tấn/năm, bao gồm 8,35 triệu tấn giấy làm thùng sóng tái chế, tại sáu nhà máy ở Trung Quốc.
Công ty cũng điều hành công ty con Phoenix Paper Wickliffe ở Mỹ. Công ty đã mua lại nhà máy này từ Verso vào năm 2018 và hiện có công suất giấy và bột giấy tổng hợp khoảng 320.000 tấn/năm.
Tại Thái Lan, Quốc Tế Sơn Ưng có công suất bột giấy tái chế khoảng 1,1 triệu tấn/năm.
Giá giấy ở Nhật Bản ổn định trong Quý 1; các nhà sản xuất bao bì dạng sóng và hộp gấp đang thúc đẩy tăng giá từ tháng 4
Phần lớn giá các loại giấy ổn định tại thị trường Nhật Bản trong quý đầu tiên của năm dương lịch 2024.
Hầu hết các nhà sản xuất giấy ở Nhật Bản đã thúc đẩy ba vòng tăng giá đối với các loại giấy in và viết (P&W) từ đầu năm dương lịch 2022 đến quý đầu tiên của năm 2023, với lý do chi phí nguyên liệu thô, nhiên liệu và hậu cần tăng vọt, tác động của nó càng trở nên trầm trọng hơn do sự mất giá của đồng yên Nhật so với đồng đô la Mỹ.
Vì lý do tương tự, các nhà máy sản xuất bìa cứng của Nhật Bản đã thực hiện hai đợt tăng giá đối với giấy làm thùng sóng, bìa hộp và giấy kraft trong cùng thời điểm trên.
Sau những đợt tăng giá này, giá giấy ở Nhật Bản ổn định vào khoảng giữa năm 2023 và duy trì sự ổn định kể từ đó.
Giá tăng cao làm giảm nhu cầu giấy, dẫn đến khối lượng sản xuất và bán hàng của các nhà sản xuất giảm trên diện rộng, nhưng giúp họ tăng doanh thu thuần và cải thiện lợi nhuận, theo kết quả tài chính của các công ty niêm yết trong 9 tháng. kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2023.
Giá bột giấy nhập khẩu, bao gồm cả bột kraft gỗ cứng tẩy trắng và bột kraft gỗ mềm tẩy trắng, đã phục hồi trong quý cuối cùng của năm 2023 từ mức sụt giảm trong quý 3 và duy trì ở mức cao trong suốt quý đầu tiên của năm 2024.
Sản lượng giấy giảm cùng với giá bột giấy biến động đã khiến các nhà máy Nhật Bản không muốn mua bột giấy nhập khẩu. Dữ liệu từ Hiệp hội Giấy Nhật Bản (JPA) cho thấy lượng tiêu thụ bột giấy của nước này đạt tổng cộng 1,078 triệu tấn vào năm 2023, giảm 26,3% so với năm trước.
Nhu cầu về giấy đồ họa giảm: Nhu cầu đối với tất cả các loại giấy đồ họa chính, bao gồm giấy in báo cũng như giấy in và giấy truyền thông, đang suy giảm về cơ cấu ở Nhật Bản do sự tăng tốc của quá trình số hóa và dân số ngày càng già đi của đất nước.
Theo JPA, mức tiêu thụ giấy in báo trong nước được ghi nhận là 1,681 triệu tấn vào năm 2023, giảm 9,8% so với năm 2022. Tiêu thụ giấy in và truyền thông giảm 8,6% xuống 5,598 triệu tấn vào năm 2023. Mức giảm này là đáng kể nhất kể từ năm 2021, do giá giấy cao hơn và việc áp dụng hình thức làm việc từ xa đã khiến mức tiêu thụ giấy đồ họa trong nước càng bị hạn chế.
Sự sụt giảm dường như vẫn tiếp tục diễn ra vào năm 2024, với các lô hàng giấy in báo cũng như giấy in và giấy truyền thông đều có mức giảm hai con số so với cùng kỳ năm trước trong tháng 1.
Một trận động đất mạnh 7,6 độ richter đã làm rung chuyển Bán đảo Noto ở tỉnh Ishikawa, miền trung Nhật Bản vào ngày 1 tháng 1 và gây ra cảnh báo sóng thần, dẫn đến việc một số nhà máy giấy phải đóng cửa trong thời gian ngắn, bao gồm một số nhà máy giấy đồ họa ở khu vực xung quanh, nhưng ảnh hưởng của nó đến nguồn cung cấp giấy đồ họa ở thị trường Nhật Bản không đáng kể vì không có thiệt hại nghiêm trọng nào được báo cáo tại các cơ sở này và hoạt động sản xuất có thể tiếp tục trong thời gian ngắn.
Lĩnh vực giấy làm bao bì ở Nhật Bản đã suy thoái vào năm 2023 sau khi tăng trưởng tích cực hai năm liên tiếp trước đó. Theo JPA, mức tiêu thụ nội địa của giấy làm thùng sóng và bìa cứng lần lượt là 8,802 triệu tấn và 1,658 triệu tấn năm 2023, giảm lần lượt 4,0% và 5,8% so với năm trước.
Với Rengo dẫn đầu, nhiều nhà sản xuất bao bì lớn của Nhật Bản trong tháng này đã công bố kế hoạch tăng giá các loại tấm sóng, hộp gấp, thông thường khoảng 10%, từ ngày 1/4.
Các nhà sản xuất bao bì cho rằng động thái này là do chi phí đầu vào cao và quan trọng hơn là do chi phí lao động và hậu cần tăng cao. Ngoài việc tăng lương nói chung trong năm nay, luật mới ở Nhật Bản sẽ giới hạn số giờ làm thêm của mỗi tài xế xe tải ở mức 960 giờ một năm kể từ đầu tháng 4, sẽ hạn chế năng lực vận tải đường bộ và tăng chi phí hậu cần.
Vận chuyển ở Biển Đỏ, các lệnh trừng phạt đẩy người mua Ấn Độ đến các nhà máy ở châu Á
Các nguồn tin cho biết, các nhà sản xuất ở châu Á nhận được nhiều yêu cầu hơn từ người mua Ấn Độ trong những tháng gần đây do nhiều yếu tố bao gồm giá tăng và giao hàng chậm trễ.
Phần lớn giấy in báo sử dụng ở Ấn Độ được nhập khẩu từ Canada, Nga và châu Âu, do giá giấy in báo nhập khẩu rẻ hơn khiến người mua tránh xa giấy in báo sản xuất trong nước. Tuy nhiên, những khó khăn gần đây trong việc tìm nguồn cung ứng giấy in báo từ các khu vực này đang làm thay đổi hiện trạng đối với các nhà nhập khẩu Ấn Độ.
Các nguồn tin cho biết, các cuộc tấn công ở Biển Đỏ đã khiến các công ty vận tải phải tránh xa Kênh đào Suez để đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng của Châu Phi, khiến thời gian vận chuyển tăng thêm 10 ngày.
Hạn hán bắt đầu ở Panama một năm trước vẫn đang gây ảnh hưởng, cản trở các chuyến hàng từ bờ biển phía tây của Canada đi qua Kênh đào Panama.
Ngoài ra, cuộc chiến tranh Nga-Ukraine và các lệnh trừng phạt tiếp theo đối với Nga từ nhiều quốc gia có nghĩa là các nhà sản xuất Nga phải sử dụng các tàu thuê riêng, gửi giấy báo từ St Petersburg đến Nhava Sheva để dỡ hàng trước khi chất lên các tàu nhỏ hơn đi đến các cảng khác nhau.
Như vậy các tuyến vận chuyển từ Châu Âu, Châu Mỹ đến Ấn Độ – nơi tiêu thụ nhiều giấy báo nhất ở châu Á – đã trở nên rắc rối hơn, tốn kém hơn và dễ bị chậm trễ hơn.
Các tuyến vận chuyển ở châu Á phần lớn đã thoát khỏi những vấn đề này và do đó nhu cầu của Ấn Độ đối với các nhà máy ở Châu Á tăng. Một người mua Ấn Độ cho biết, các nhà máy ở Đông và Đông Nam Á gần đây đang bán giấy in báo cho người mua ở Ấn Độ nhưng không tiết lộ giá cả. Một nguồn tin của nhà sản xuất Đông Á cho biết gần đây họ đã nhận được yêu cầu, với các giao dịch được thực hiện gần đây với giá trên 600 USD/tấn.
Tỷ lệ hoạt động mới nhất được biết ở các nhà máy sản xuất giấy in báo ở châu Á là ở mức 85-100%.
Hán Cao Hà Bắc đưa máy xeo giấy làm lớp sóng 150.000 tấn/năm vào hoạt động tại Trung Quốc
Công ty Khoa học và Công nghệ Vật liệu Mới Hán Cao Hà Bắc đã khởi động máy xeo giấy làm lớp sóng (medium) mới công suất 150.000 tấn/năm tại nhà máy ở thành phố Hình Đài, tỉnh Hà Bắc. Được đặt tên là PM 2, chiếc máy này đã sản xuất tờ giấy đầu tiên vào ngày 2 tháng 3.
Máy do nhà cung cấp trong nước Công nghệ thông minh Trọng Nhã Hà Nam cung cấp có chiều rộng cắt 4,5 mét và tốc độ thiết kế 750 mét/phút.
Hán Cao Hà Bắc cũng vận hành một máy xeo bìa thô công suất 300.000 tấn/năm cũng tại nhà máy này.
PT Sun Paper Source bổ sung thêm 4 TM với tổng công suất 108.000 tấn/năm ở Mojokerto, Indonesia
PT Sun Paper Source đang lắp đặt bốn máy xeo giấy tissue (TM) mới, mỗi máy có công suất 27.000 tấn/năm, tại nhà máy hiện có ở Mojokerto, tỉnh Đông Java của Indonesia. Các TM sẽ bắt đầu hoạt động vào đầu tháng 4 năm 2025.
Người phát ngôn của PT Sun Paper Source cho biết bốn TM mới sẽ sẽ sử dụng bột gỗ nguyên chất từ các khu rừng được quản lý bền vững như một phần trong cam kết của công ty đối với các hoạt động tìm nguồn cung ứng có trách nhiệm.
Sản phẩm trong tương lai của 4 TM sẽ được chuyển đổi một phần thành các thành phẩm tại chỗ, phần còn lại sẽ được bán dưới dạng cuộn lớn trên thị trường.
Ngoài bốn máy TM mới đang được xây dựng, PT Sun Paper Source đang có kế hoạch lắp đặt thêm bốn máy TM khác tại địa điểm này trong vòng 5 năm tới.
Công ty hiện đang vận hành sáu TM với tổng công suất 132.000 tấn/năm tại nhà máy ở Ngoro, Mojokerto. Công ty chị em của nó, PT Sopanusa, điều hành hai TM với tổng công suất 60.000 tấn/năm tại một nhà máy gần đó.
Trấn Thành Hồ Bắc bổ sung 25.000 tấn/năm tại Trung Quốc
Giấy Trấn Thành Hồ Bắc đã công bố công suất giấy tissue mới 25.000 tấn/năm tại nhà máy của mình ở thành phố Kinh Châu, tỉnh Hồ Bắc. Máy có tên TM 55, hoạt động từ ngày 5 tháng 3.
Nhà cung cấp nội địa Công ty Công nghiệp Thanh Lương Thượng Hải đã cung cấp máy có chiều rộng cắt 2,85 mét và tốc độ thiết kế 1.600 mét/phút.
Trấn Thành Hồ Bắc còn có bốn máy xeo giấy tissue khác với tổng công suất khoảng 64.000 tấn/năm.
Trấn Thành Hồ Bắc là một phần của Tập đoàn Thái Sơn, một nhà sản xuất giấy giấy lớn ở Trung Quốc, hiện cũng đang điều hành 5 nhà máy giấy tisue khác với tổng công suất khoảng 1,27 triệu tấn/năm.
Quan điểm của RISI về thị trường: Tình trạng dư thừa năng lực trong lĩnh vực giấy tissue của Trung Quốc
Sản xuất giấy tissue của Trung Quốc đã rơi vào tình trạng dư thừa công suất kể từ năm 2018. Việc sử dụng công suất đã giảm dần kể từ năm 2012, chỉ tạm dừng hai lần, vào năm 2015 và 2017, giảm từ 79% vào thời kỳ đỉnh cao năm 2012 xuống còn 68% vào năm 2022 (Hình 1). Tỷ lệ sử dụng đã giảm đáng kể từ năm 2020 đến năm 2022, khi giảm từ 75% xuống gần 68%. Các yếu tố chính dẫn đến hoạt động giảm là do nhu cầu tissue giảm gần đây và công suất tissue tăng đáng kể. Tuy nhiên, ngay cả mức tăng lớn hơn mức trung bình về nhu cầu giấy tissue là 11% vào năm 2021 cũng không thể cải thiện tỷ lệ hoạt động, bởi vì trong khi công suất giấy giấy tăng lên 752.000 tấn mỗi năm từ năm 2010 đến năm 2019 thì công suất lại tăng hơn gấp đôi từ năm 2020 đến năm 2022 bình quân đạt 1,57 triệu tấn.
Mặc dù sự tăng trưởng nhu cầu tissue trước đây và mức tăng dự đoán trong vài năm tới là đầy hứa hẹn, nhưng công suất đã tăng lên trong hai năm qua và các dự án hiện được công bố đã vượt quá mức tăng dự kiến về nhu cầu tissue. Thực tế này có thể đã bị các nhà sản xuất khăn giấy tại thị trường Trung Quốc bỏ qua, vì cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy xu hướng này sẽ đảo ngược trong vài năm tới. Vậy đằng sau chiến lược mở rộng năng lực hơn nữa là gì?
Có hai cách giải thích. Đầu tiên là có thể có kỳ vọng rằng nhiều máy giấy nhỏ hơn, cũ hơn sẽ sớm bị loại khỏi thị trường. Vẫn còn một số lượng lớn các máy nhỏ hơn và cũ hơn được vận hành bởi nhiều nhà sản xuất giấy giấy nhỏ hơn đáng kể ở Trung Quốc. Những máy này kém cạnh tranh hơn về chất lượng và chi phí sản xuất. Hơn nữa, các nhà máy sử dụng máy móc cũ cũng phải đối mặt với những hạn chế nghiêm ngặt hơn về môi trường, đặc biệt là khi nằm gần khu dân cư, khiến họ có nguy cơ buộc phải đóng cửa cao hơn.
Một lời giải thích khác có thể là do giảm thuế hoặc trợ cấp từ chính quyền địa phương. Kết hợp với tín dụng chiết khấu, những điều này có thể đã thúc đẩy các nhà sản xuất khăn giấy mở rộng công suất nhanh hơn nhu cầu tăng trưởng. Ngành công nghiệp giấy không phải là ngành đầu tiên ở Trung Quốc nhận được trợ cấp của chính phủ cuối cùng đã khuyến khích tình trạng dư thừa năng lực. Đây cũng là vấn đề đã tồn tại ở một số lĩnh vực khác, bao gồm sản xuất xi măng, thép và năng lượng mặt trời. Công suất dư thừa có thể trở thành một vấn đề lớn hơn trong những năm tới bởi vì, theo Hội đồng Atlantic của Mỹ,[1] các ngân hàng Trung Quốc cũng đã bắt đầu cho vay nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất thay vì lĩnh vực bất động sản. Các khoản vay ngân hàng từ các ngân hàng Trung Quốc cho lĩnh vực sản xuất ở Trung Quốc đã tăng từ 110 tỷ USD trong quý 1 năm 2020 lên 695 tỷ USD trong quý 3 năm 2023. Và những khoản vay này thường được đưa ra với lãi suất thấp hơn thị trường.
Vậy bây giờ điều gì sẽ xảy ra? mặc dù mức tiêu thụ trong nước sẽ tăng trong vài năm tới nhưng nó sẽ không mở rộng đủ để hấp thụ hết công suất dư thừa. Điều này khiến các nhà sản xuất Trung Quốc có hai lựa chọn: tìm cơ hội xuất khẩu cho sản phẩm của họ hoặc đóng cửa thêm công suất.
BỘT NHẬP KHẨU VÀO TRUNG QUỐC
Thực giá, USD/tấn CIF tại các cảng chính.
Giá hiện hành | So với tuần trước | |||
15/03/2024 | 08/03/2024 | 01/03/2024 | (%) | |
HÀNG TUẦN | ||||
Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng (BSK) | ||||
NBSK – Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng phương Bắc | 738 | 730 | 730 | 1,10% |
HAI TUẦN/LẦN | ||||
Bột kraft gỗ mềm tẩy trắng | ||||
Gỗ thông Radiata (Chile) | 727,5 | 727,5 | 727,5 | 0,00% |
BSK Nga* | 665 | 665 | 665 | 0,00% |
Bột kraft gỗ cứng tẩy trắng (BHK) | ||||
Gỗ bạch đàn | 655 | 655 | 655 | 0,00% |
BHK Nga* | 620 | 620 | 620 | 0,00% |
Bột kraft gỗ mềm không tẩy (USK) | ||||
Chile và Bắc Mỹ | 645 | 645 | 645 | 0,00% |
Nga | 590 | 605 | 605 | -2,48% |
Bột hoá nhiệt cơ tẩy trắng (BCTMP) | ||||
Gỗ cứng (độ trắng 80%) | 505 | 505 | 505 | 0,00% |
Gỗ mềm (độ trắng 75%) | 490 | 515 | 515 | -4,85% |
HÀNG THÁNG | ||||
Bột làm bỉm (Kraft phương bắc Mỹ) | 900 | 900 | 900 | 0,00% |
GHI CHÚ: * BSK Nga và BHK Nga là giá CIF tới các cảng chính của Trung Quốc. |
THÙNG SÓNG CŨ (OCC) NHẬP KHẨU VÀO ĐÔNG NAM Á
Giá USD/tấn CIF tại các cảng chính Đông Nam Á (trừ Indonesia) và Đài Loan
8/3/2024 | 23/2/2024 | 9/2/2024 | So với 1 năm trước | |
OCC (11) từ Mỹ | 225-230 | 215-220 | 205-210 | 42.2% |
OCC (90/10) từ Châu Âu | 160-165 | 145-150 | 145-150 | 27.5% |
OCC (95/5) từ Châu Âu | 165-170 | 150-155 | 150-155 | 24.1% |
OCC Nhật Bản | 175-180 | 170-175 | 170-175 | 12.7% |
Nguồn Risi
Biên dịch và tổng hợp VPPA